Theo Cục Xuất nhập khẩu (XNK) – Bộ Công Thương, bình quân mỗi năm kim ngạch XK sản phẩm chế biến từ mây, tre đạt khoảng 200 triệu USD. Mặc dù sản phẩm mây, tre của Việt Nam đã có mặt tại 120 quốc gia, nhưng mới chiếm chưa đến 3% thị trường thế giới, chưa khai thác hết tiềm năng phát triển. Trong tương lai, nếu ngành chế biến mây tre có hướng đi bền vững thì giá trị XK có thể đạt tới 1 tỷ USD, vào năm 2020.
Ông Nguyễn Trọng Thừa, Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT), cho biết hiện cả nước có khoảng 1,4 triệu ha tre, tương đương 6,2 tỷ cây. Trong đó, khoảng 6% diện tích rừng trồng, phần còn lại là rừng tự nhiên. Có 37 tỉnh có rừng tre tập trung, 23 tỉnh có diện tích tre từ 10.000ha trở lên. Trong đó, các tỉnh có trữ lượng tre lớn, tập trung là: Thanh Hóa, Lâm Đồng, Kon Tum, Nghệ An, Tuyên Quang, Đăk Nông, Bình Phước, Lai Châu, Sơn La và Yên Bái.
Xuất khẩu mới chiếm 3% thị phần thế giới
Việt Nam hiện có 9/40 loài tre, nứa có giá trị kinh tế, trong đó luồng, trúc và tầm vông là loại có giá trị cao. Đây là nguồn nguyên liệu quý giá phục vụ cho ngành chế biến lâm sản ngoài gỗ nói chung, trong điều kiện gỗ nguyên liệu ngày càng khan hiếm và thị trường nước ngoài đang có những quy định ngày càng chặt chẽ về nguồn gốc gỗ.
Các sản phẩm từ mây tre được chia thành 2 nhóm, gồm nhóm truyền thống (thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, mành, chiếu, tăm, giấy…) và nhóm sản phẩm mới (sàn tre, tấm ốp lát tre nghệ thuật và làm đồ nội thất, tre ép làm tấm lót đường, tre ép phục vụ xây dựng, làm than hoạt tính, làm sợi…).
Theo Cục XNK, sản phẩm mây tre Việt Nam đã XK sang hơn 120 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, nhất là các nước phát triển, như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Australia, Hàn Quốc, Anh, Pháp, Tây Ban Nha… Trong đó, thị trường Mỹ chiếm đến trên 19% thị phần và thị trường Nhật Bản cũng chiếm gần 17% thị phần. Kim ngạch XK mây tre năm 2012 đạt 201 triệu USD; ước 11 tháng đầu năm 2013 đạt trên 207 triệu USD. Tuy nhiên, lượng mây tre Việt Nam XK còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đến 3% thị phần thế giới.
Thị trường tre, luồng thế giới khá lớn, có tính cạnh tranh cao. Theo Báo cáo của Chương trình tre Mekong, thị trường tre, luồng thế giới năn 2013 đạt xấp xỉ 15 tỷ USD và dự đoán đến năm 2017 sẽ đạt 17 tỷ USD. Trong đó, các sản phẩm truyền thống đang bị cạnh tranh gay gắt nên tốc độ tăng trưởng có chiều hướng chậm lại. Nhóm các sản phẩm mới, sản phẩm chế biến công nghiệp đang có tiềm năng phát triển. Đây là cơ hội lớn cho các DN chế biến tre công nghiệp.
Hàng năm, Việt Nam tiêu thụ khoảng 400 – 500 triệu cây tre, nứa. Sản lượng khai thác và công suất của các nhà máy chế biến tre, nứa của Việt Nam là 5,2 triệu tấn nguyên liệu/năm. Sản lượng song mây trong cả nước ước khoảng 36.510 tấn/năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ thực tế khoảng 70.000 tấn/năm. Có nghĩa là trên 33.000 tấn đang được NK mỗi năm từ các nước khác.
Tích cực xây dựng, quảng bá thương hiệu
Theo ông Nguyễn Tôn Quyền, Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các DN trong nước chưa nắm vững thị hiếu và nhu cầu của nước NK. Trong khi các nước phát triển thường ưa chuộng các sản phẩm đơn giản, có tính hình khối thì các sản phẩm thủ công và thủ công mỹ nghệ Việt Nam thường rườm rà, nhiều chi tiết và lắm góc cạnh, uốn lượn, nên khó có thị trường bền vững. Bên cạnh đó, chúng ta chưa xây dựng được thương hiệu chung cho các sản phẩm tre Việt Nam, cũng như các thương hiệu riêng cho từng loại sản phẩm, từng DN, nên khó cạnh tranh được với các quốc gia khác trên thị trường quốc tế.
Theo ông Thừa, phát triển trồng cây mây, tre còn gặp khó về chính sách. Mặc dù thời gian qua, một số chính sách liên quan đến phát triển mây, tre được ban hành, như: Bộ NN&PTNT có Đề án Bảo tồn và phát triển lâm sản ngoài gỗ giai đoạn 2006 – 2020; Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 11/2011/QĐ-TTg về khuyến khích phát triển ngành mây, tre. Thế nhưng, hiện Nhà nước vẫn chưa có chính sách riêng hỗ trợ cây mây, tre, mà vẫn chỉ lồng ghép trong các văn bản chính sách nông nghiệp chung.
Theo Bộ NN&PTNT, cơ cấu sản phẩm mây tre hiệ
n chưa hợp lý, có tới 95% tổng giá trị sản phẩm của ngành này tập trung vào nhóm hàng truyền thống, nhóm sản phẩm mới chỉ chiếm 5%. Định hướng từ nay đến năm 2020 và 2030, cơ cấu sản phẩm của ngành chế biến tre sẽ là 30% cho các sản phẩm truyền thống và 70% sản phẩm thuộc nhóm các sản phẩm mới. Giá trị của ngành chế biến mây, tre kỳ vọng sẽ đạt mức 1 tỷ USD, trong đó giá trị các sản phẩm chế biến công nghiệp chiếm khoảng 700 triệu USD.
Nhiều ý kiến cho rằng để phát triển sản xuất
và kinh doanh xuất khẩu mây tre bền vững trước hết Nhà nước định hướng tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo nghề, xây dựng đội ngũ nghệ nhân. Chính quyền địa phương cần tạo điều kiện, hỗ trợ cần thiết để các DN liên kết, liên doanh xây dựng vùng nguyên liệu (giao đất lâm nghiệp ổn định và lâu dài, tham gia các chương trình/dự án trồng rừng sản xuất…) để ổn định sản xuất.
Về phía các DN, cần tự xây dựng chiến lược thị trường, đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, chủ động tìm hiểu thị trường để đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Bên cạnh các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản… cần tìm kiếm thị trường tiềm năng mới.
(Nguồn: Thời báo kinh doanh)